Trong nỗ lực đi tìm một lời giải theo “đơn đặt hàng” của Bộ KH&CN, các nhà nghiên cứu Viện Pasteur TP.HCM đã nhanh chóng đưa ra đề xuất với các nhà quản lý, qua đó góp phần khẳng định năng lực: sẵn sàng tham gia giải quyết những vấn đề thời sự của đất nước bằng chuyên môn đặc biệt của mình.
Được Bộ KH&CN giao nhiệm vụ KH&CN độc lập cấp nhà nước phòng, chống dịch bệnh COVID-19 vào đầu tháng 2/2020, Viện Pasteur TP.HCM - một đơn vị trong hệ thống viện Pasteur chuyên nghiên cứu về các căn bệnh nhiệt đới, dược phẩm ở Việt Nam - thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học và virus học bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng virus Corona mới 2019 (COVID-19)” (32/20-ĐTĐL.CN-CNN). Đây là cơ sở để các nhà nghiên cứu ở đây có thể áp dụng những kiến thức đã có về các virus họ corona và tìm hiểu thêm những điều còn chưa biết về virus chủng mới.
Trong bối cảnh dịch bệnh, các nhà quản lý không đặt quá nặng vào việc một nhiệm vụ KH&CN đột xuất phải có kết quả đầu ra kèm theo công bố quốc tế như thông thường mà chỉ tập trung vào giải pháp hoặc sản phẩm thực tế. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu Viện Pasteur TP.HCM cho rằng, những giải pháp mình đưa ra mà chưa được cộng đồng quốc tế ngành dịch tễ học đánh giá thì chưa hẳn đã tối ưu. Do đó, để giải pháp của mình đề ra có ý nghĩa hơn, họ đã triển khai một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, không chỉ gồm những nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm của mình mà còn mời thêm các nhà nghiên cứu ở Cục Y tế dự phòng, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Viện Pasteur Nha Trang (Bộ Y tế) cùng các đồng nghiệp ở Đại học Copenhagen (Đan Mạch), Quỹ Bill & Melinda Gates (Mỹ), Viện Burnet (Úc) tham gia giải quyết vấn đề.
Đó là lý do mà sau hơn một năm thực hiện đề tài, Viện Pasteur TP.HCM đã có được nhiều công bố quốc tế, trong đó đáng chú ý là công trình “Estimating and mitigating the risk of COVID-19 epidemic rebound associated with reopening of international borders in Vietnam: a modelling study” (Ước tính và giảm nguy cơ bùng phát dịch COVID-19 liên quan đến mở cửa biên giới cho khách quốc tế ở Việt Nam: Nghiên cứu mô hình hóa) xuất bản trên Lancet Global Health, và công trình “In the interest of public safety: rapid response to the COVID-19 epidemic in Vietnam” (Trong mối quan tâm về an toàn công cộng: ứng phó nhanh với đại dịch COVID-19 tại Việt Nam) xuất bản trên BMJ Global Health – hai tạp chí top Q1 của Scimago.
Đánh giá nguy cơ rủi ro bằng toán học và dữ liệu
Trong nghiên cứu trên Lancet Global Health, các nhà nghiên cứu tập trung vào đánh giá lại quá trình ứng phó của Việt Nam qua làn sóng COVID-19 thứ hai ở Đà Nẵng trong tháng 7/2020 với các dữ liệu dịch bệnh, hành vi, nhân khẩu học và chính sách, để xây dựng một mô hình lan truyền cho Việt Nam, những thay đổi hành vi thích ứng hoàn cảnh của người dân để phản hồi với việc tái mở cửa, đón khách quốc tế.
Liên kết với làn sóng lan truyền thứ nhất, họ nhận thấy những phản hồi nhanh chóng từ chính quyền: khi vào tháng 1/2020, Việt Nam đã nhanh chóng đóng cửa biên giới với Trung Quốc - nước tâm điểm dịch - để hạn chế số lượng ca nhiễm xâm nhập và đóng cửa các trường học và trường đại học; tiếp theo là hạn chế khách du lịch từ các quốc gia khác vào giữa tháng 2/2020 và dừng tất cả các chuyến bay quốc tế vào ngày 25/3/2020. Vào tháng 3/2020, Chính phủ đã ban hành quy định bắt buộc đeo khẩu trang, cấm tụ tập nơi công cộng và giữ khoảng cách tối thiểu hai mét.
Có thể thành công từ việc kiểm soát làn sóng thứ nhất đã đem lại kinh nghiệm cho chính phủ tiếp tục kiểm soát tình hình ở Đà Nẵng. Các nhà nghiên cứu nhận thấy, chính phủ cũng sử dụng các biện pháp phong tỏa phạm vi hẹp để kiểm soát dịch bệnh bùng phát như việc phong tỏa một số khu vực tại Đà Nẵng đã được tiến hành chỉ ba ngày sau bùng phát. Tuy nhiên, điểm phức tạp là ở thời điểm đó, các ca bệnh đã lan sang các tỉnh khác. Mặc dù đợt dịch này đã được kiểm soát vào giữa tháng 8/2020 nhưng đã đưa đến hơn 500 ca nhiễm và xuất hiện các trường hợp tử vong do COVID-19 đầu tiên ở Việt Nam.
Với câu hỏi “Điều gì đã giúp kiểm soát ổ dịch này bùng phát và làm thế nào để kiểm soát nó sớm hơn?” và “Liệu Việt Nam có thể duy trì thành công trong việc kiểm soát virus khi mở cửa biên giới cho khách du lịch quốc tế?”, các nhà nghiên cứu đã đưa các dữ liệu xét nghiệm theo vùng địa lý từ Viện Vệ sinh dịch tễ Việt Nam, dữ liệu bệnh nhân từ Cục Y tế dự phòng vào Covaxin, một mô hình tác tử nguồn mở dùng để đánh giá lan truyền SARS-CoV-2 và sự tiến triển của dịch bệnh.
Vậy họ phát hiện được gì thông qua việc mô hình hóa lan truyền dịch bệnh ở Đà Nẵng? Họ tìm thấy một yếu tố quan trọng trong việc giúp kiểm soát là tốc độ triển khai của các biện pháp từ chính quyền và hành vi chấp hành của người dân, ví dụ như tỷ lệ người dân thường xuyên đeo khẩu trang tăng lên, chú ý hơn đến quy trình vệ sinh và giữ khoảng cách… sau khi chính quyền thông báo về sự gia tăng của các trường hợp lây truyền tại địa phương. Sử dụng các ước tính về mối liên hệ giữa các nguy cơ ở mức độ cá nhân và việc sử dụng khẩu trang ở quy mô cộng đồng, nơi làm việc và trường học, họ nhận thấy việc dùng khẩu trang làm giảm xác suất lây truyền trên mỗi lần tiếp xúc tới 58%.
Nhưng những phát hiện này có tác động gì đến kịch bản tái mở cửa đón khách quốc tế? Để mô hình hóa nguy cơ của các trường hợp tránh cách ly và có khả năng là nguyên nhân gây bùng phát dịch bệnh ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã thiết lập được ba kịch bản: người dân tuân thủ quy định của chính phủ ở mức cao, người dân tự hài lòng và người dân tự điều chỉnh hành vi.
Ở trường hợp thứ nhất, nguy cơ lây truyền giảm xuống khi người dân tuân thủ quy định, qua đó thể hiện sự thay đổi hành vi lâu dài.
Ở trường hợp thứ hai, xác suất lây truyền qua mỗi lần tiếp xúc tương đối tăng trước khi bùng phát nhưng lại có chiều hướng giảm nếu xuất hiện một số trường hợp mới tại địa phương.
Ở trường hợp thứ ba, xác suất lây truyền qua tiếp xúc giảm đi nếu con số hằng ngày của các ca bệnh mới tăng lên trên năm ca.
Những gợi ý cho chính sách mở cửa
Những kết quả thu được từ việc mô hình hóa của các nhà nghiên cứu Viện Pasteur TP.HCM và các đồng nghiệp trong nước, quốc tế đã gợi ý rất nhiều thông tin hữu ích về chính sách kiểm soát dịch bệnh trong tương lai ở Việt Nam khi tái mở cửa đón khách quốc tế. “Việt Nam có thể đạt được việc ngăn chặn các đợt bùng phát COVID-19 trong tương lai, nếu các biện pháp ứng phó trước đây có thể lặp lại”, các nhà nghiên cứu cho biết trong công bố của mình.
Tuy nhiên, họ cho rằng, một trong những yếu tố quan trọng là tăng cường xét nghiệm COVID-19 bởi việc xét nghiệm sẽ cho phép các nhà quản lý và những người làm y tế công cộng có thể phát hiện ổ dịch sớm hơn, giúp ngăn chặn dịch lây lan sang các tỉnh khác, đồng thời làm giảm số ca nhiễm và tử vong. Điều này cũng tương đồng với đề xuất của tổng thư ký WHO từ ngày đầu đại dịch “xét nghiệm, xét nghiệm, xét nghiệm”. Trong công trình của mình, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh “nếu tỉ lệ xét nghiệm thấp thì vẫn sẽ có khả năng lây truyền cộng đồng trước khi dò được và ngăn chặn các ca nhiễm mới”. Họ ước tính, nếu tỷ lệ xét nghiệm vẫn tương đồng với những thời điểm trước đợt dịch bùng phát ở Đà Nẵng thì có thể xảy ra khả năng số ca nhiễm từ 1000 đến 4000 ca tích lũy trong ba tháng sau khi tái mở cửa. Nhưng nếu trong trường hợp tăng gấp đôi tốc độ xét nghiệm từ 10% lên tới 20% trên những người có triệu chứng thì có thể giảm một nửa con số các ca lây nhiễm này.
Các nhà nghiên cứu cũng gợi ý đến tầm quan trọng của xét nghiệm trên các ca có triệu chứng trong những vùng ít lây nhiễm hoặc không lây nhiễm. Trước đó, họ cũng đã thực hiện hai nghiên cứu đánh giá hiệu quả của xét nghiệm trên những vùng này: 1. Những vùng có mức độ lây truyền thấp khi áp dụng các chiến lược xét nghiệm và theo dõi, tuy nhiên tổng số các ca lây nhiễm trong giai đoạn ba tháng vẫn có thể cao hơn 30 lần nếu tỉ lệ xét nghiệm chỉ đạt 50%; 2. Trong vòng 60 ngày, xác suất của một ca có bệnh có thể lây nhiễm trên năm ca mỗi ngày là khoảng 50% nếu các vùng không có những biện pháp giới hạn giao tiếp và tỉ lệ xét nghiệm là 25%. Nếu tỉ lệ xét nghiệm đạt 50% thì xác suất lây nhiễm hạ xuống 45% còn tỉ lệ xét nghiệm đạt 75% thì xác suất chỉ còn 35%. Một nghiên cứu khác của họ cũng cho thấy xét nghiệm ngẫu nhiên 5% dân số của một vùng mỗi tuần kết hợp với việc cô lập, cách ly tại nhà và truy vết mọi giao tiếp có thể làm giảm khả năng lây truyền tới 64%.
Trong thông cáo báo chí về công bố mới, Viện Pasteur TPHCM đã nhấn mạnh đến một yếu tố quan trọng khác là hành vi của người dân. Ngay sau khi ổ dịch được xác định, mọi người nhanh chóng đeo khẩu trang, với việc sử dụng khẩu trang tăng từ 35% lên 90% trong vòng một tuần. Mô hình xác nhận rằng sự thay đổi hành vi này là một lý do quan trọng khác lý giải tại sao sự bùng phát có thể được kiểm soát.
Do đó, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng dù Việt Nam có thể mở lại một số chuyến bay quốc tế, nhưng vẫn tồn tại những rủi ro, đặc biệt khi nhiều ca xâm nhập, các chuyến bay từ các quốc gia có nhiều biến thể dễ lây lan hơn của COVID-19, hay tỷ lệ xét nghiệm quá thấp, hay cộng đồng trở nên chủ quan và không tuân thủ việc sử dụng khẩu trang hoặc giữ khoảng cách. Nhưng nếu khả năng ứng phó nhanh với các đợt bùng phát của Việt Nam tiếp tục được duy trì, ngành y tế có thể phát hiện được các ca xâm nhập rải rác trước khi chúng trở thành các đợt bùng phát lớn trong cộng đồng.
Tuy nhiên các nhà khoa học cũng lưu ý là nghiên cứu mô hình của mình đã được thực hiện xong trước khi dấy lên những lo ngại về các biến thể mới được phát hiện, ví dụ bốn ca được dò giữa ngày 28/1 và 16/2/2021 ở Việt Nam đều từ biến chủng B.1.1.7. của SARS-CoV-2. Sự xuất hiện của những chủng có khả năng lây truyền nhanh hơn của SARS-CoV-2 có thể làm gia tăng cả xác xuất cũng như quy mô của các đợt bùng phát trong tương lai ở Việt Nam.